Tìm hiểu phương pháp bơm tinh trùng vào buồng tử cung – IUI: Thụ tinh nhân tạo IUI bằng cách bơm tinh trùng vào buồng tử cung là phương pháp điều trị hiếm muộn đời đầu và đã có từ cuối thế kỷ 18. Vì chi phí rẻ và quá trình điều trị không can thiệp quá sâu vào việc thụ thai, phương pháp này thường được nghĩ tới đầu tiên.
Trường hợp nào có thể dùng phương pháp bơm tinh trùng vào buồng tử cung?
Phương pháp bơm tinh trùng vào buồng tử cung (IUI) có thể giúp bạn thụ thai trong trường hợp người bạn đời của bạn tinh trùng ít hoặc có tính di động kém (Tính di động kém đơn giản có nghĩa là tinh trùng gặp khó khăn để đến được tới chỗ trứng).
Phương pháp IUI cũng giúp hỗ trợ nếu bạn đang dùng thuốc giúp rụng trứng hoặc sản xuất thêm trứng và canh giờ thụ tinh để tăng khả năng có thai.
Dựa vào tình trạng sức khỏe sinh sản bác sĩ sẽ cho bạn lời khuyên thích hợp
Phương pháp bơm tinh trùng vào buồng tử cung – IUI có thể được dùng để điều trị những vấn đề về sinh sản khác, bao gồm:
- Vô sinh không rõ nguyên nhân
- Sẹo cổ tử cung hoặc các bất thường với chất nhầy cổ tử cung
- Đau nhiều khi quan hệ
- Các vấn đề về xuất tinh hoặc cương cứng
- Các bệnh lây truyền qua đường tình dục, chẳng hạn như HIV hoặc viêm gan (ở một trong hai người)
- Dị ứng với tinh dịch
Phương pháp bơm tinh trùng vào buồng tử cung cũng có thể được dùng khi người phụ nữ sử dụng tinh trùng được hiến tặng để thụ thai, hoặc khi người đàn ông chọn trữ đông tình trùng trước khi điều trị ung thư và giờ sẵn sàng có con.
Liệu trình điều trị với phương pháp thụ tinh nhân tạo IUI là như thế nào?
Phương pháp bơm tinh trùng vào buồng tử cung cần có sự rụng trứng, ít nhất là một ống dẫn trứng vẫn hoạt động, và một mẫu tinh dịch có chứa tinh trùng khỏe mạnh. Mỗi quá trình điều trị IUI được xem là một chu trình – khoảng thời gian từ ngày đầu của kỳ kinh đến rụng trứng, thụ tinh và rồi đến việc thử thai vào 2 tuần sau đó.
Các mốc thời gian trong liệu trình điều trị hiếm muộn bằng phương pháp bơm tinh trùng vào buồng tử cung như sau:
Sản xuất trứng. Có một vài cách để các buồng trứng sản xuất trứng để thụ tinh. Bác sĩ có thể đề nghị chu trình “không kích trứng” (tự nhiên), nghĩa là không dùng thuốc hỗ trợ sinh sản hoặc sẽ cho bạn dùng thuốc vào đầu kỳ kinh để kích thích buồng trứng sản xuất vài trứng trưởng thành. (Phụ nữ thường rụng chỉ một trứng mỗi tháng).
Canh trứng. Sử dụng bộ dụng cụ để nhận biết ngày rụng trứng có thể giúp bạn biết được thời điểm trứng rụng, việc này là cần thiết để canh thời gian thụ tinh.
Khi trứng tách ra khỏi nang, dụng cụ này báo hiệu việc nội tiết tố LH sắp tăng mạnh, và việc thụ tinh thường sẽ được tiến hành vào ngày tiếp theo. Bác sĩ cũng có thể biết được thời điểm rụng trứng bằng cách tiến hành siêu âm.
Lọc rửa tinh trùng. Khi bạn rụng trứng rồi, thì giờ là lúc chồng bạn sản xuất mẫu tinh trùng để sau đó là bước “lọc rửa”. Quy trình này sẽ tập hợp những tinh trùng khỏe mạnh nhất thành một lượng ít dịch.
Thụ tinh. Bác sĩ dùng một ống nhỏ dài (catheter) để bơm những tinh trùng đậm đặc trên trực tiếp vào tử cung qua cổ tử cung. Quá trình này thường không gây đau, nhưng một số phụ nữa cảm thấy đau thắt nhẹ.
Thử thai. Hai tuần sau khi bơm tinh trùng vào buồng tử cung, bạn sẽ được kiểm tra xem có mang thai hay không.
Thụ tinh nhân tạo bằng phương pháp bơm tinh trùng vào buồng tử cung
Phương pháp thụ tinh nhân tạo IUI mất bao lâu?
Việc thụ tinh chỉ mất một vài phút, nhưng có thể bạn cần dùng thuốc hỗ trợ khoảng 1 tuần trước khi rụng trứng. Tùy thuộc vào nguyên nhân gây hiếm muộn, bạn cần 3 – 4 chu trình IUI trước khi thụ thai thành công hoặc chuyển sang phương pháp điều trị hiếm muộn khác như thụ tinh trong ống nghiệm (IVF).
Hiện nay, một số bác sĩ khuyến cáo những phụ nữ ở độ tuổi gần 40 hoặc lớn hơn nên tiến hành thụ tinh trong ống nghiệm sớm hơn – có thể điều trị hiếm muộn bằng phương pháp này ngay từ đầu hoặc chỉ sau 1 – 2 chu trình thụ tinh nhân tạo IUI thất bại.
Tỷ lệ thành công của phương pháp thụ tinh nhân tạo IUI ra sao?
Tỷ lệ thành công phụ thuộc vào tuổi tác và tình trạng hiếm muốn của hai vợ chồng. Các nghiên cứu cho thấy các cặp đôi có nguyên nhân hiếm muộn không xác định được, tỷ lệ đậu thai trên mỗi chu trình IUI tự nhiên là khoảng 4 – 5%, và khi dùng thuốc hỗ trợ sinh sản, tỷ lệ đậu thai là khoảng 7 – 16%. Chưa có thống kê về tỷ lệ sinh nhờ phương pháp bơm tinh trùng vào buồng tử cung.
Tỷ lệ thành công của liệu pháp bơm tinh trùng vào buồng tử cung phụ thuộc vào tuổi tác và tình trạng hiếm muốn của hai vợ chồng
Ưu điểm của phương pháp thụ tinh nhân tạo IUI là gì?
- Đối với nhiều cặp vợ chồng, phương pháp bơm tinh trùng vào buồng tử cung là bước điều trị đầu tiên do ít xâm lấn và cũng rẻ hơn so với điều trị bằng các kĩ thuật hỗ trợ sinh sản khác như thụ tinh ống nghiệm.
- Các cặp đôi với chồng là người có vấn đề về sinh sản dùng phương pháp thụ tinh nhân tạo IUI dễ thụ thai hơn là chỉ canh thời điểm quan hệ.
- Các cặp đôi bị hiếm muộn không rõ nguyên nhân dùng IUI thường có kết quả tốt hơn chỉ dùng thuốc.
- Phương pháp này cho phép sự thụ tinh diễn ra tự nhiên trong cơ thể người phụ nữ.
Nhược điểm của phương pháp thụ tinh nhân tạo IUI là gì?
- Dùng thuốc hỗ trợ sinh sản khiến bạn có nhiều khả năng thụ thai 2 bé trở lên, và việc mang đa thai được cho là gây rủi ro cao.
- Người chồng phải nhanh chóng sản xuất tinh trùng (bằng cách thủ dâm) vào cốc vô khuẩn tại phòng khám bởi việc canh thời gian để bơm tinh trùng vào buồng tử cung là rất quan trọng.
- Hai vợ chồng phải đến chỗ bác sĩ ngay khi sản xuất được 1 trứng. Bạn thường nhận thấy dấu hiệu chỉ 24 – 36 giờ trước khi rụng trứng.
– Nếu bạn dùng thuốc hỗ trợ (như clomiphene citrate) để kích thích trứng rụng trước khi tiến hành bơm tinh trùng vào buồng trứng, khả năng mang thai đôi của bạn khoảng 10%.
– Nếu dùng các thuốc gonadotropin để sản xuất trên một trứng, khả năng bạn thụ thai nhiều thai nhi là khoảng 30%.
- Khi dùng các thuốc gonadotropin, có 10 – 20% khả năng bạn mắc thể nhẹ hội chứng quá kích buồng trứng (OHSS). Với tình trạng bệnh này, các buồng trứng tạm thời to lên và rỉ dịch vào bụng. Điều này khiến bạn cảm thấy khó chịu nhưng thường nhanh chóng biến mất mà không cần điều trị. Gonadotropin gây hội chứng quá kích buồng trứng thể nặng ở 1% các chu trình và những ca này thường phải nhập viện điều trị.